Thực đơn
Chiến_dịch_tấn_công_Proskurov–Chernovtsy Binh lực và kế hoạchPhương diện quân Ukraina 1 do Nguyên soái G. K. Zhukov tạm thời chỉ huy thay đại tướng N.F.Vatutin bị thương nặng. Đây là một trong hai phương diện quân có binh lực mạnh nhất vùng Ukraina khi đó. G. K. Zhukov chỉ để lại Tập đoàn quân 13 phối hợp với Phương diện quân Byelorussia 2 kiềm chế cánh Bắc của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức). Còn lại 7 tập đoàn quân của phương diện quân, trong đó có 3 tập đoàn quân xe tăng đều được huy động vào hướng tấn công chính của chiến dịch.
Tập đoàn quân xe tăng 1 do trung tướng M. E. Katukov chỉ huy, biên chế có:
Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 do thượng tướng P. A. Rybalko chỉ huy, biên chế có:
Tập đoàn quân xe tăng 4 do trung tướng D. D. Lelyushenko chỉ huy. Biên chế có:
Tập đoàn quân cận vệ 1 do Thượng tướng A. A. Gresko chỉ huy. Biên chế có:
Tập đoàn quân 13 do Trung tướng N. P. Pukhov chỉ huy. Biên chế có
Tập đoàn quân 18 do trung tướng E. P. Zhuravlev chỉ huy. Biên chế có:
Tập đoàn quân 38 do thượng tướng K. S. Moskalenko chỉ huy. Biên chế có:
Tập đoàn quân 60 do thượng tướng I. D. Cherniakhovsky chỉ huy. Biên chế có:
Tập đoàn quân không quân 2 do thượng tướng S. A. Krasovsky chỉ huy. Biên chế có 1 sư đoàn tiêm kích, 2 sư đoàn cường kích, 1 sư đoàn ném bom ban ngày, 1 sư đoàn ném bom ban đêm, 2 trung đoàn vận tải, 1 trung đoàn đổ bộ đường không, 1 trung đoàn trinh sát, 1 trung đoàn cứu hộ, 4 trung đoàn phòng không.
Các đơn vị dự bị chiến dịch trực thuộc Bộ tư lệnh Phương diện quân
Cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 do đại tướng I. S. Konev chỉ huy; chịu trách nhiệm hướng phụ công hợp vây ở phía Nam mặt trận. 2 tập đoàn quân được điều động tham gia chiến dịch.
Tập đoàn quân xe tăng 6 do trung tướng A. G. Kravchenko chỉ huy. Biên chế có:
Tập đoàn quân 40 do trung tướng F. F. Zhmachenko chỉ huy. Biên chế có:
Ngay sau khi kết thúc Chiến dịch Korsun–Shevchenkovsky, ngày 18 tháng 2 năm 1944, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 đã đặt vấn đề mở cuộc tấn công mới trên hướng Proskurov-Chernovtsy. Ngày 23 tháng 2, Nguyên soái G. K. Zhukov và Hội đồng quân sự Phương diện quân đã thống nhất kế hoạch tấn công và báo cáo lên Đại bản doanh. Ngày 24 tháng 2, Đại bản doanh Liên Xô ra mệnh lệnh số 130315 đồng ý phê duyệt kế hoạch tấn công và chỉ thị:
“ | Phương diện quân Ukraina 1 sử dụng các tập đoàn quân xe tăng 1 và cận vệ 3 tổ chức tấn công trên toàn tuyến Dubno, Shepetovka Lyubar, cô lập và tiêu diệt cánh quân Đức tại khu vực Kremenets, phát triển theo hướng Starokonstantinov, Tarnopol, Berestechko, Brody, Proskurov và Khmelnitsky. Tiếp theo, mở cuộc đột kích theo hướng Chertkov, Lvov, chia cắt Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) ở phía Tây và phía Bắc khu vực hữu ngạn sông Dnieste. Thời gian tấn công từ ngày 4 đến 6 tháng 3 | ” |
— STAVKA, [14] |
Đòn đột kích mạnh nhất sẽ được các tập đoàn quân xe tăng Liên Xô giáng vào đoạn tiếp giáp giữa Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đang mỏng đi sau nỗ lực phá vây cứu Cụm quân Đức ở Korsun–Shevchenkovsky. Xét thấy một mình Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 của tướng P. A. Rybalko không đủ mạnh để đột phá sâu, G. K. Zhukov yêu cầu Đại bản doanh lấy Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng D. D. Lelyushenko từ lực lượng dự bị để tăng viện cho Phương diện quân. I. V. Stalin đã đồng ý. Để bảo đảm đột phá sâu hơn và hình thành một vòng vây rộng, G. K. Zhukov điều động Tập đoàn quân 1 của tướng M. E. Katukov vốn đang hoạt động tại Pogrebische, phía trước Vinitsa bí mật chuyển quân đến Shepetovka. Theo kế hoạch, các tập đoàn quân bộ binh 18, 38 và cận vệ 1 phải hành động tích cực trên chính diện Lyubar - Lipovets để "lôi kéo" và "giữ chân" Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) trên khu vực Vinitsa - Proskorov, tạo điều kiện cho các tập đoàn quân xe tăng khép vòng vây ở phía Tây. Phương diện quân Ukraina 2 phải phối hợp chặt chẽ với Phương diện quân Ukraina 1 về thời điểm mở Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani để tạo vòng vây phía Nam, ngăn chặn Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) thoát sang Romania. Kế hoạch cũng tính đến các hành động tích cực trên cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 phối hợp với Phương diện quân Byelorussia 2 để che chắn, bảo đảm phía sau chủ lực của Phương diện quân Ukraina 1 không bị Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đột kích bọc hậu.[15]
Công tác hậu cần đảm bảo cho chiến dịch của quân đội Liên Xô ban đầu có gặp những khó khăn do đường giao thông kéo dài, hệ thống đường sắt bị phá hoại trong các chiến dịch chậm được khôi phục, các kho dã chiến, kho trung chuyển chưa kịp đưa lên gần mặt trận. Mãi đến ngày 1 tháng 3, Tập đoàn quân 60 mới vượt được 60 km từ Mlinov đến Yampol trên một vùng hầu như không có đường sá. Tập đoàn quân xe tăng 1 đến ngày 2 tháng 3 mới đổ quân xuống ga Shepetovka trong khi nhiên liệu của họ vẫn còn đang nằm ở đâu đó trên tuyến đường sắt Berdichev - Shepetovka. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 phải san sẻ cho Tập đoàn quân xe tăng 1 dự trữ xăng dầu của mình để bảo đảm bước vào chiến đấu đúng kế hoạch. Chỉ đến ngày 4 tháng 3, đúng ngày mở màn chiến dịch, tuyến đường sắt Novograd Volynsky đi Shepetovka mới được khai thông và việc tiếp tế cho các tập đoàn quân Liên Xô ổn định trở lại. Đến ngày 4 tháng 3, các tập đoàn quân chủ lực của Phương diện quân Ukraina 1 đã được đảm bảo 3 đến 4 cơ số đạn dược, 15 cơ số xăng dầu, 20 cơ số lương thực, thực phẩm và 2,7 cơ số y cụ, thuốc men.[16]
Đối diện với Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) là hai tập đoàn quân xe tăng mạnh nhất của Quân đội Đức Quốc xã ở mặt trận phía Đông. Hai đạo quân này chiếm hơn nửa số xe tăng Đức trên toàn chiến trường Xô-Đức và đều do các tướng lĩnh cao cấp có nhiều kinh nghiệm chỉ huy.
Tập đoàn quân xe tăng 1 do thượng tướng Hans-Valentin Hube chỉ huy được biên chế 3 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn bộ binh:
Quân đoàn xe tăng 3 của trung tướng Hermann Breith, biên chế có:
Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walther Nehring, trong biên chế có:
Quân đoàn xe tăng 46 của tướng Friedrich Schulz. Biên chế có:
Quân đoàn bộ binh 59 của tướng Kurt von der Chevallerie. Biên chế có:
Tập đoàn quân xe tăng 4 do thượng tướng Erhard Raus chỉ huy được biên chế 3 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn bộ binh:
Quân đoàn xe tăng 42 của tướng Franz Mattenklott (phục hồi). Biên chế có:
Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Hermann Balck. Biên chế có:
Quân đoàn xe tăng 56 của tướng Friedrich Hoßbach. Biên chế có:
Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Arthur Hauffe. Biên chế có:
Sau khi giải thoát được hơn 4.000 quân Đức khỏi lòng chảo Korsun - Shevchenkovsky, thống chế Erich von Manstein kiên trì thuyết phục Hitler từ bỏ Phòng tuyến Panther-Wotan để lui về giữ các tuyến sông Nam Bug và sông Dniestr. Khác với chiến thuật bố trí phòng thủ tuyến sông Dniepr, sơ đồ phòng thủ mới của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sẽ gồm hai tuyến chính.
Tuyến thứ nhất dọc theo sông Nam Bug là các cụm cứ điểm Proskorov (nay là Khmenniskyi), Vinitsa, Zhmerinka, Ladyzhin, Pervomaisk, Voznesensk, Nikolayev. Các cụm cứ điểm này sẽ dựa vào tuyến đường sắt Tarnopol đi Pervomaisk để cơ động lực lượng xe tăng và cơ giới, ứng cứu kịp thời cho các điểm bị đột phá. Các tuyến đường ngang Proskurov - Starokonstantinov, Zmerinka - Vinitsa, Vabniarka - Ladyzin, Kotovsk - Pervomaisk và Odessa - Voznesensk cũng phục vụ mục tiêu tác chiến phòng ngự cơ động từ trong ra ngoài và ngược lại. Các cụm cứ điểm Starokonstantinov, Vinitsa, Uman - Khristinovka, Pomoshnaya - Novoukrainka sẽ là các chốt phòng ngự tiền tiêu, ngăn chặn từ xa các đòn công kích của Quân đội Liên Xô khi họ tiếp cận tuyến sông Nam Bug.[17]
Tuyến thứ hai dọc theo sông Dniestr gồm các cụm cứ điểm Tarnopol, Zalesye, Khotin, Soroky (Soroca), Ryvnita, Bendery và Akkerman. Khi đó, con đường sắt Lvov qua Stanislav (Ivano Frankivsk), Chernovtsy, Yassy (Iasi), Kishinev, Izmail sẽ phục vụ cơ động cho tuyến phòng thủ này. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam tính toán rằng, cuộc tấn công từ Đông sang Tây của các phương diện quân Ukraina (Liên Xô) sẽ phải khắc phục khó khăn khi vượt qua hai con sông. Tuy không rộng và sâu bằng sông Dniepr nhưng sông Nam Bug và sông Dniestr cũng là những chướng ngại rất đáng kể, đặc biệt là trong mùa xuân tan băng, nước sông lên cao hơn.[17]
Hình thức phòng ngự chủ yếu của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) vẫn là bộ binh chốt giữ phối hợp với xe tăng cơ động. Hai tuyến dường sắt chạy dọc theo các Thung lũng sông Nam Bug và Dniestr sẽ bảo đảm cho việc cơ động đó. Việc lùi về hai tuyến sông này đã kéo quân Đức lại gần hai cụm dự bị chiến lược quan trọng là Cụm quân Đức - Hungary - Slovakia tại Tây Nam Ba Lan và cụm quân Đức - Rumania - Bulgaria ở Balkan. Ngoài ra, Cụm tập đoàn quân E đóng tại Hy Lạp cũng là một nguồn dự trữ khác đảm bảo cho việc phòng ngự.[18]
Khó khăn lớn nhất của quân đội Đức Quốc xã vẫn là thiếu xe tăng. Từ năm 1943, quân đội Đức Quốc xã không thể lấy lại được ưu thế về số lượng xe tăng trên mặt trận Xô-Đức mặc dù họ đã được trang bị nhiều xe tăng tốt hơn hẳn như Tiger I, Tiger II, Panther.[19] Pháo binh cũng trong tình trạng tương tự vì suốt từ đầu cuộc chiến tranh, Quân đội Liên Xô luôn có tỷ lệ trội hơn về số lượng pháo, súng cối và đặc biệt là hỏa tiễn Katyusha, thứ vũ khí đột phá còn khủng khiếp hơn cả đại bác mà quân đội Đức Quốc xã từng gặp trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.[20] Khó khăn tiếp theo là vấn đề nhiên liệu. Mặc dù vẫn sản xuất được hơn 3 triệu tấn xăng dầu mỗi năm nhưng sản lượng đó vẫn không đủ cung cấp cho Quân đội Đức Quốc xã, đặc biệt là thiết giáp, cơ giới và không quân. Việc cơ động lực lượng xe tăng đến các mặt trận trông chờ rất nhiều vào đường sắt. Trong khi đó, đường sắt và các nhà ga đầu mối luôn là mục tiêu oanh tạc của không quân đối phương. Đây là một trong những điểm yếu nhất của kế hoạch phòng thủ dựa trên chiến thuật cơ động xe tăng phối hợp với bộ binh chốt giữ của người Đức.[21]
Thực đơn
Chiến_dịch_tấn_công_Proskurov–Chernovtsy Binh lực và kế hoạchLiên quan
Chiến tranh thế giới thứ hai Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh Pháp – Đại Nam Chiến dịch Điện Biên Phủ Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia Chiến tranh Pháp–Phổ Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 Chiến tranh Đông Dương Chiến tranh Kim – TốngTài liệu tham khảo
WikiPedia: Chiến_dịch_tấn_công_Proskurov–Chernovtsy http://www.armchairgeneral.com/rkkaww2/maps/1944SW... http://ww2stats.com/cas_ger_okh_dec44.html http://www.history.army.mil/books/wwii/20234/20-23... http://9may.ru/17.04.1944/inform/m4453 http://bdsa.ru/index.php?option=com_easygallery&ac... http://militera.lib.ru/h/ergos/15.html http://militera.lib.ru/h/ergos/19.html http://militera.lib.ru/h/fuller/08.html http://militera.lib.ru/h/getman_al/06.html http://militera.lib.ru/h/grylev_an/03.html